Gỡ khó cho ngành vật liệu xây dựng

Sản xuất và tiêu thụ đều giảm, lượng hàng tồn kho tăng cao... là những khó khăn đang cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp ngành nghề vật liệu xây dựng.

Nếu không kịp có các giải pháp trợ giúp, số lượng doanh nghiệp phá sản sẽ không ngừng tăng trong thời gian tới.

Vậy cách gì để gỡ khó cho ngành vật liệu xây dựng?

Nhiều DN có nguy cơ phá sản

Theo thông tin từ Hiệp hội xi măng Việt Nam, trong 5 tháng đầu năm 2012, sản xuất xi măng chỉ đạt khoảng 19.000 triệu tấn, giảm 16,8% so với cùng kỳ năm 2011 (22,2 triệu tấn), tiêu thụ xi măng đạt khoảng 18.495 triệu tấn, giảm 10,6% so với cùng kỳ. Cộng với lượng tồn lũy kế từ năm 2011, số tồn kho của xi măng đã lên tới trên 3 triệu tấn (tương đương 3.000 tỷ đồng).

Sản xuất và tiêu thụ giảm, song năng lực sản xuất của toàn ngành lại tăng khoảng 10% do cao trào đầu tư xi măng đã khởi động từ những năm gần đây chưa hãm lại được. Năm 2012, toàn ngành xi măng có công suất thiết kế khoảng 70 triệu tấn, năng lực khai thác dự kiến đạt từ 62-64 triệu tấn, trong đó, nhu cầu tiêu thụ nội địa năm 2012 dự kiến khoảng 46-47 triệu tấn, phấn đấu xuất khẩu 7-8 triệu tấn. Tổng cộng tiêu thụ là 53-54 triệu tấn, và khoảng 10 triệu tấn công suất sẽ dư thừa.

Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngành nghề VLXD khác. Đơn cử, lượng tồn kho đầu năm 2012 của ngành gốm sứ xây dựng, tính cả lượng tồn kho lũy kế tại các đơn vị sản xuất và tồn kho từ các đại lý đã tăng lên 20% (với khoảng trên 40 triệu m2 gạch ốp lát và trên 1 triệu sản phẩm sứ vệ sinh, tương đương trên 3.000 tỷ đồng). Trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây không nung, các dây chuyền sản xuất gạch bê tông nhẹ mới chỉ được khai thác ở tỷ lệ rất thấp, hầu hết sản lượng sản xuất chỉ đạt 20-30% công suất. Việc tiêu thụ vật liệu xây không nung nhẹ còn rất hạn chế, chỉ ở 50-60% sản lượng. Một số DN không tiêu thụ được sản phẩm đã phải dừng sản xuất. Trong ngành sản xuất thủy tinh xây dựng, đá ốp lát phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu, nên lượng tồn kho lớn, tiêu thụ chậm, nhiều DN phải dừng sản xuất. Ngành thép, sản lượng thép xây dựng sản xuất trong tháng 5 chỉ đạt 410 ngàn tấn, giảm 50 ngàn tấn so với tháng trước. Đến cuối tháng 5, lượng thép thành phẩm tồn kho lên tới 320 ngàn tấn, tăng thêm 5 ngàn tấn so với tháng trước. Nhiều nhà máy thép hiện chỉ chạy cầm chừng ở 50-60% công suất.

Lý giải nguyên nhân của tình trạng trên, theo đại diện Hội VLXD Việt Nam cho rằng, do thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, thắt chặt tiền tệ của Chính phủ, đầu tư công bị cắt giảm, các dự án BĐS tạm dừng hoặc giãn tiến độ, nhiều công trình xây dựng thiếu vốn triển khai... đã khiến nhu cầu tiêu thụ VLXD sụt giảm đáng kể. Đó là chưa kể tới giá cả nhiên liệu, điện, nguyên liệu đầu vào liên tục tăng, lãi suất ngân hàng cao, tỷ giá ngoại tệ tăng, vốn lưu động thiếu... đã làm các doanh nghiệp VLXD phải giảm sản lượng hoặc dừng sản xuất, nhiều doanh nghiệp đã xuất hiện dấu hiệu phá sản. Đại diện Hiệp hội xi măng cho rằng, kinh tế suy giảm, nhưng ngành xi măng những năm gần đây lại đầu tư quá mạnh và ồ ạt, công suất thiết kế và năng lực sản xuất tăng vượt nhu cầu. Từ năm 2011 đến nay, ngành xi măng đã đẩy mạnh xuất khẩu như một giải pháp tình thế để giải quyết một phần tình trạng dư thừa. Tuy nhiên, đây cũng không phải là một giải pháp có hiệu quả kinh tế đối với xi măng Việt Nam.

Tiếp tục cơ cấu lại các khoản nợ

Để gỡ khó cho ngành VLXD, gần đây nhất, Đoàn Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam đã có cuộc họp với một số hiệp hội ngành VLXD và một số DN để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh. Từ đây, Hiệp hội đã có công văn số 61/HVLXDVN gửi tới Thủ tướng Chính phủ cùng các bộ, ngành liên quan để trình bày một số kiến nghị nhằm giải cứu thị trường VLXD. Theo đó, Hội mong muốn Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết số 13 và các giải pháp kích cầu, tạo đầu ra cho sản phẩm VLXD. Đồng thời, tăng cường việc xây dựng đường sá bằng bê tông xi măng thay bê tông atsphan... Hiệp hội cũng kiến nghị Quốc hội cho áp dụng thuế suất thuế GTGT các sản phẩm VLXD là 5%, thay cho mức thuế 10% hiện hành để kích cầu người tiêu dùng, tạo điều kiện cho các DN tiêu thụ hết hàng tồn kho, thu hồi vốn trả nợ ngân hàng. Đặc biệt, Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Xây dựng tái cấu trúc ngành công nghiệp xi măng, điều chỉnh lại quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng cho phù hợp với thực tế tiêu thụ hiện nay.

Về phía Ngân hàng Nhà nước, cần chỉ đạo các NHTM cơ cấu lại các khoản nợ (giãn nợ, khoanh lãi các khoản vay đầu tư trước đây) để DN không lâm vào tình trạng nợ xấu. Hạ lãi suất cho vay dưới 12% và nới rộng các quy định về điều kiện vay vốn lưu động để các DN có nhu cầu thực được vay vốn với lãi suất thấp. Bộ Xây dựng cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu VLXD, hạn chế nhập khẩu, trước hết là chống nhập lậu, gian lận thương mại, kiểm tra chặt chẽ xuất xứ các VLXD nhập khẩu vào Việt Nam, bao gồm cả VLXD nhập theo các gói thầu EPC của các nhà thầu nước ngoài, quản lý có hiệu quả việc xuất khẩu VLXD.

Nguyễn Nga

Báo Đại Đoàn Kết